Mỗi con người có DNA có các gen khác nhau. Nhiều gen trong số này là chung cho tất cả mọi người, trong khi một số lại khác nhau ở mỗi người.
Những biến thể này là những biến thể chịu trách nhiệm làm cho mỗi con người trở nên độc nhất.
Các biến thể này được biết đến là các alen về mặt sinh học và mỗi người đều chứa hai alen cho cùng một gen, một alen do mẹ và một gen khác do cha ruột đóng góp.
Chúng chỉ có thể có hai loại, tức là Đồng hợp tử và Dị hợp tử.
Chìa khóa chính
- Đồng hợp tử đề cập đến việc có hai alen giống hệt nhau cho một gen, trong khi dị hợp tử đề cập đến việc có hai alen khác nhau.
- Các cá thể đồng hợp tử biểu hiện sự lai tạo thuần túy, trong khi các cá thể dị hợp tử biểu hiện sự lai tạo.
- Các cá thể đồng hợp tử dễ mắc các bệnh di truyền hơn nếu gen mang đột biến gây bệnh.
Đồng hợp tử vs Dị hợp tử
Đồng hợp tử có nghĩa là phải có các alen giống hệt nhau của một gen cụ thể hoặc thừa hưởng các phiên bản giống nhau của thị trường gen từ cha mẹ ruột. Dị hợp tử được sử dụng để xác định có hai alen khác nhau của các gen cụ thể và chúng có một đặc điểm cụ thể. Nó được sử dụng để mô tả một tế bào, hạt nhân hoặc sinh vật.
Các gen chứa các biến thể là lý do tại sao mỗi con người đều khác nhau.
Ví dụ, khi gen do cha mẹ ruột truyền cho đứa trẻ chứa cùng một biến thể, cả hai gen đại diện cho màu mắt đều chứa cùng một màu có thể được gọi là gen đồng hợp tử.
Một số gen chứa các biến thể khiến mỗi con người trở nên khác biệt.
Khi gen được cha mẹ ruột truyền cho đứa trẻ chứa hai biến thể, và một trong số chúng là trội và một gen khác là lặn chẳng hạn, một gen biểu thị màu mắt chứa màu nâu và chiếm ưu thế, trong khi gen còn lại chứa màu đen và gen lặn. thì chúng có thể được gọi là gen dị hợp tử.
Bảng so sánh
Đồng hợp tử là gì?
Các gen chứa các biến thể là lý do tại sao mỗi con người đều khác nhau.
Ví dụ, khi gen do cha mẹ ruột truyền cho đứa trẻ chứa cùng một biến thể, cả hai gen đại diện cho màu mắt đều chứa cùng một màu có thể được gọi là gen đồng hợp tử.
Đồng hợp tử là mã của một đặc điểm cụ thể do sự hiện diện của các bản sao của hai alen cùng loại được truyền bởi cha và mẹ ruột.
Nó cũng chịu trách nhiệm cho giao tử. Đồng hợp tử cũng chịu trách nhiệm sản xuất một hoặc chỉ một loại giao tử.
Một trách nhiệm khác mà nó phải đối mặt là tự sinh sản, dẫn đến việc tạo ra các tính trạng có thể được truyền lại cho các thế hệ tiếp theo.
Những đặc điểm giống nhau qua thế hệ xảy ra ở Đồng hợp tử trong quá trình tự sinh sản. Đồng hợp tử không thể hiện bất kỳ sức sống nào.
Có hai loại đồng hợp tử hiện có trên thế giới, đó là đồng hợp tử trội và đồng hợp tử lặn.
Tính trạng trội đồng hợp tử là trường hợp cả hai gen đều chiếm ưu thế trong tự nhiên, trong khi tính trạng đồng hợp tử lặn là đặc điểm mà cả hai gen đều thể hiện hành vi lặn trong ứng dụng của gen.
Ở thể đồng hợp tử bệnh xảy ra có thể là liềm-thiếu máu tế bào và hội chứng thận hư kháng steroid.
Dị hợp tử là gì?
Một số gen chứa các biến thể khiến mỗi con người trở nên khác biệt.
Khi gen được cha mẹ ruột truyền cho đứa trẻ có chứa hai biến thể, và một trong số chúng là trội và một gen khác là lặn chẳng hạn, một gen biểu thị màu mắt chứa màu nâu và chiếm ưu thế, trong khi một gen khác chứa màu đen và tính trạng lặn. chúng có thể được gọi là gen dị hợp tử.
Dị hợp tử là của một gen cụ thể và có một tập hợp hai bản sao alen khác nhau. Dị hợp tử có cả hai (trội hoặc lặn), ví dụ, Tt.
Gen trội quy định và thể hiện sự biến đổi của nó ở con người nhưng con người đóng vai trò mang mầm bệnh ở thế hệ này và thế hệ khác có thể có tác động do gen lặn này.
Dị hợp tử có cả hai loại giao tử (cả hai đều có sự trợ giúp của các alen trội và lặn). Sự tổ hợp của một số tính trạng qua các thế hệ diễn ra ở thể dị hợp trong quá trình tự phối giống.
Với thể dị hợp tử, nó có thể thể hiện một số sức sống mạnh mẽ hơn được gọi là sức sống lai. Có ba loại dị hợp tử hoàn toàn dị hợp tử, dị hợp tử không hoàn toàn và đồng hợp tử.
Bệnh có thể xảy ra ở thể dị hợp tử có thể là bệnh Huntington.
Sự khác biệt chính giữa đồng hợp tử và dị hợp tử
- Đồng hợp tử là mã của một tính trạng cụ thể do sự hiện diện của các bản sao của hai alen cùng loại, trong khi dị hợp tử là của một gen cụ thể và tập hợp hai bản sao alen khác nhau.
- Cả hai đều có thể có alen trội hoặc lặn. Trong trường hợp đồng hợp tử, nó có thể là một trong hai (trội hoặc lặn). Một ví dụ về điều này có thể là TT hoặc tt, trong khi dị hợp tử có thể có cả hai (trội hoặc lặn), ví dụ, Tt.
- Cả hai đều chịu trách nhiệm cho giao tử. Sự khác biệt là ở các loại giao tử mà chúng tạo ra. Đồng hợp tử chịu trách nhiệm tạo ra một hoặc một loại giao tử, trong khi các loại giao tử dị hợp tử (cả hai đều có sự trợ giúp của các alen trội và lặn).
- Họ chịu trách nhiệm tự sinh sản, dẫn đến việc tạo ra các tính trạng. Các tính trạng giống nhau qua thế hệ xảy ra ở thể đồng hợp tử trong quá trình tự phối giống, trong khi sự kết hợp của một số tính trạng qua thế hệ diễn ra ở thể dị hợp tử trong quá trình tự phối giống.
- Cả hai đều thể hiện ít hoặc nhiều sức sống. Trong trường hợp đồng hợp tử, nó không biểu hiện thêm sức sống nào, trong khi với thể dị hợp tử, nó có thể biểu hiện thêm một số sức sống được gọi là sức sống lai.
- Có hai loại đồng hợp tử và dị hợp tử khác nhau. Hai loại đồng hợp tử là đồng hợp tử trội và đồng hợp tử lặn, và các loại dị hợp tử là dị hợp tử hoàn toàn, dị hợp tử không hoàn toàn và đồng trội.
- Bệnh có thể xảy ra ở cả hai người; ở thể đồng hợp tử bệnh xảy ra có thể là bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm và hội chứng thận hư kháng steroid, ngược lại bệnh có thể xảy ra ở thể dị hợp tử có thể là bệnh Huntington.
- https://academic.oup.com/jcem/article-abstract/74/3/685/2653099
- https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/014067369192449C
- https://www.nature.com/articles/nature17664
Chào mừng bạn đến với PRAIM, - nền tảng thông tin, hướng dẫn và kiến thức toàn diện hàng đầu! Chúng tôi cam kết mang đến cho bạn một trải nghiệm sâu sắc và tuyệt vời về kiến thức và cuộc sống. Với Praim, bạn sẽ luôn được cập nhật với những xu hướng, tin tức và kiến thức mới nhất.