Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm văn học nổi tiếng, mang đậm tình cảm và nhân văn. Trong đó, đoạn trích “Trao duyên” là cảm xúc chân thành của Thúy Kiều khi nhờ em gái Thúy Vân trả nghĩa cho người yêu Kim Trọng. Đoạn trích này đã tạo nên bi kịch tình yêu và khắc họa được nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều.
Trao duyên
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt, khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan.
Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Đôi nét về tác giả Nguyễn Du
1. Cuộc đời
- Nguyễn Du sinh năm 1765 tại Thăng Long, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.
- Tổ tiên Nguyễn Du vốn từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội) và di cư vào xã Nghi Xuân, huyện Tiên Điền (nay là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).
- Cha là Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775) và mẹ là Trần Thị Tần (1740 – 1778).
- Vợ của Nguyễn Du là con gái Đoàn Nguyễn Thục, quê ở Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam (nay thuộc Thái Bình).
- Nguyễn Du từ nhỏ đã được tiếp nhận truyền thống văn hóa của nhiều vùng quê khác nhau.
- Thời thơ ấu và niên thiếu, Nguyễn Du sống tại Thăng Long trong một gia đình phong kiến quyền quý.
- Năm 10 tuổi, Nguyễn Du mồ côi cha.
- Năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, Nguyễn Du đến sống với người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản.
- Trong khoảng thời gian này, ông đã có dịp hiểu biết về cuộc sống phong lưu, xa hoa của giới quý tộc phong kiến.
- Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài) và được tập ấm nhận một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên.
- Từ năm 1789, Nguyễn Du đã trải qua cuộc sống khó khăn gian khổ hơn chục năm ở các vùng nông thôn khác nhau, điều này đã tạo tiền đề cho việc hình thành tài năng và bản lĩnh văn chương của ông.
- Sau nhiều năm sống chật vật ở các vùng quê khác nhau, năm 1802, Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn.
- Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên), sau đổi thành Tri phủ Thường Tín (nay thuộc Hà Nội).
- Từ năm 1805 – 1809, ông được thăng chức Đông Các điện học sĩ.
- Năm 1809, Nguyễn Du được bổ làm Cai bạ dinh Quảng Bình.
- Năm 1813, ông được thăng Cần Chánh điện học sinh và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc.
- Đến khi sang Trung Quốc, Nguyễn Du được tiếp xúc trực tiếp với nền văn hóa mà từ nhỏ đã quen thuộc.
- Năm 1820, Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường đã qua đời vào ngày 10 tháng 8 năm 1820.
- Năm 1965, Hội đồng Hòa bình thế giới đã công nhận Nguyễn Du là danh nhân văn hóa thế giới.
2. Sự nghiệp văn học
a. Các sáng tác chính
- Sáng tác bằng chữ Hán: gồm 249 bài thơ chữ Hán.
- Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên): 78 bài viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi ra làm quan nhà Nguyễn.
- Nam trung tạp ngâm (Các bài thơ ngâm khi ở phương Nam): 40 bài viết thời gian làm quan ở Huế và Quảng Bình.
- Bắc hành tạp lục (Ghi chép trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ sáng tác trong chuyến đi sứ Trung Quốc.
=> Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng, tình cảm, nhân cách của ông.
- Sáng tác bằng chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều) và Văn chiêu hồn.
b. Một vài đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Du
- Đặc điểm nội dung:
- Tình cảm chân thành, sự cảm thông sâu sắc đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh, phụ nữ.
- Đề cập đến chủ nghĩa nhân đạo trong văn học, trân trọng giá trị tinh thần và chủ thể sáng tạo.
- Đề cao hạnh phúc của con người tự nhiên, trần thế.
=> Nguyễn Du là tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa văn học.
- Đặc điểm nghệ thuật:
- Sử dụng nhiều thể thơ phong phú.
- Góp phần trau dồi ngôn ngữ văn học dân tộc.
Giới thiệu về đoạn trích Trao duyên
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Đoạn trích Trao duyên được trích trong “Truyện Kiều” (Đoạn trường tân thanh).
- Đoạn trích từ câu 723 đến câu 756 trong Truyện Kiều, thuộc phần Gia biến và Lưu lạc. Đây là lời của Thúy Kiều nói với Thúy Vân khi nhờ Vân trả nghĩa cho Kim Trọng còn nàng thì bán mình để chuộc cha.
2. Bố cục
Gồm 3 phần:
- Phần 1: Từ đầu đến “Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”. Kiều thuyết phục và trao duyên cho Thúy Vân.
- Phần 2: Tiếp theo đến “Rảy xin chén nước cho người thác oan”. Kiều trao tín vật đính ước cho em cùng với lời dặn dò.
- Phần 3. Còn lại. Nỗi đau đớn, dằn vặt của Thúy Kiều.
3. Ý nghĩa nhan đề
- Trao duyên: Gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ họ nối lại mối duyên dang dở của mình.
- Nhan đề “Trao duyên”: Thúy Kiều bán mình để chuộc cha và gửi mối duyên dang dở đến em gái Thúy Vân, nhờ Vân trả nghĩa cho Kim Trọng.
4. Nội dung
Qua đoạn trích “Trao duyên”, tác giả Nguyễn Du đã khắc họa được bi kịch tình yêu và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều.
5. Nghệ thuật
- Nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật.
- Sử dụng hình ảnh tượng trưng, ước lệ…
- Sử dụng thành công ngôn ngữ, thể thơ của dân tộc.
Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm về Truyện Kiều và các dịch vụ giáo dục trên trang web PRAIM.
Chào mừng bạn đến với PRAIM, - nền tảng thông tin, hướng dẫn và kiến thức toàn diện hàng đầu! Chúng tôi cam kết mang đến cho bạn một trải nghiệm sâu sắc và tuyệt vời về kiến thức và cuộc sống. Với Praim, bạn sẽ luôn được cập nhật với những xu hướng, tin tức và kiến thức mới nhất.